học đạo

Học đạo quý vô tâm. Làm, nghĩ, nói không lầm. Sáng trong và lặng lẽ. Giản dị mới uyên thâm.

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2011

uy nghi dành cho người phật tử tại gia

Lời ngỏ
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông”.
       Thật vậy, mái chùa là tổ ấm và linh hồn của dân tộc, là nơi nuôi dưỡng tâm linh làm nền tảng đạo đức cho con cháu của chúng ta khôn lớn. Người xưa đã có nếp sống cao đẹp như vậy từ bao đời, ngày nay chúng ta cũng phải biết tiếp nối sự nghiệp cao đẹp đó và gìn giữ những gì mà chư vị tiền bối đã gầy dựng.
       Để bồi đắp và khai mở tuệ giác vốn có ở nơi mỗi con người thì chúng ta cần phải thực hành theo những gì mà đức Thế Tôn đã dạy, và đó chính là giới học, định học và tuệ học. Trong ba môn học này thì giới luật đóng vai trò căn bản cho những ai đang còn chập chững trên bước đường tu nhân học Phật. Bởi tâm ý của chúng ta vẫn thường xuyên buông lung phóng túng, nói năng và hành động còn nhiều vụng về, thô tháo nên dễ dàng tạo ra phiền não và làm tổn hại đến cho mọi người xung quanh. Vì thế, chúng ta cần phải tìm hiểu, học hỏi về những luật nghi mà đức Thế Tôn đã giảng dạy.
       Trong phạm vi tập sách này, chúng tôi chỉ rút ra vài ý căn bản ở chương Uy nghi, trong luật Sa DiSa Di Ni, do Hòa Thượng Thích Trí Quang biên dịch và tham khảo thêm một số ý khác trong sách Bước Tới Thảnh Thơi, do Đạo Tràng Mai Thôn biên soạn. Đồng thời, chúng tôi căn cứ vào hiện trạng sinh hoạt của các Phật tử khi đến chùa, rồi biên soạn lại thành tập sách Uy nghi này, với mục đích giúp cho người Phật tử tại gia dễ dàng nắm bắt và ứng dụng vào trong đời sống hàng ngày thêm được nhiều lợi lạc!
       Thiết nghĩ, cho dù chúng ta tu tập pháp môn gì đi nữa, giới luật vẫn là nền tảng căn bản của toàn bộ giáo lý đạo Phật. Vì thế, là người học trò của đức Thế Tôn thì chúng ta cần phải học hỏi và thực hành theo lời dạy của Ngài, nhằm phòng hộ và chuyển hóa những tập khí tham, sân, chấp ngã của tự thân, xây dựng nếp sống thanh lương, cao đẹp cho bản thân và cộng đồng xã hội.
Chúng con thành tâm kính tri ân Hòa Thượng Thích Minh Thông, đã quan tâm giảng dạy cặn kẽ về môn Luật học, giúp cho hàng hậu học chúng con được am hiểu để ứng dụng vào trong đời sống hàng ngày được nhiều lợi lạc! Mặt khác, Hòa Thượng còn từ bi hoan hỷ dành thì giờ để chỉ dẫn và chỉnh sửa tập sách uy nghi này, tạo thêm phần chuẩn xác và lợi ích đến cho người đọc.
  Tập sách này được biên soạn với sự cần mẫn và suy nghiệm của tự thân, nhưng không sao tránh khỏi những vụng về, thiếu sót. Do đó, con kính xin chư tôn đức từ bi chỉ dạy và quý thiện hữu tri thức hoan hỷ bổ khuyết cho, để tập sách được hoàn chỉnh và tăng thêm phần lợi lạc!
       Biên soạn
       Thích Quảng Hướng
Mục lục
Chương I: Đến chùa………………
Chương II: Tiếp xúc với quý Tăng Ni.............
Chương III: Thỉnh quý Thầy về nhà
Chương IV: Làm công quả……..
Chương V: Ăn cơm……………
Chương VI: Vào nhà vệ sinh…….
Chương VII: Quan hệ với các bạn đồng tu…
Chương VIII: Nghe pháp thoại….
Chương IX: Học hỏi đạo lý……
Chương X: Thờ Phật và lạy Phật
Chương XI: Ngồi thiền, kinh hành,
tụng kinh và niệm Phật……………
Chương XII: Bảo vệ môi trường…
Chương I: Đến chùa
    Khi vào cổng chùa thì phải xuống xe, tắt máy dẫn bộ và để đúng nơi quy định. Đến chùa nên mặc áo Tràng, nếu không có thì mặc áo quần dài ống, nhằm thể hiện sự kín đáo, trang nghiêm và lịch sự. Không nên mặc áo ngắn tay để hở nách, quần cụt v.v.. Vì ăn mặc cũng chính là thể hiện tư cách của một con người có đạo đức, văn minh và tiến bộ.
    Áo Tràng (áo lễ) thì không nên để nhăn nheo, vo cục, kẹp nách, không vứt bỏ bừa bãi, lung tung, bạ đâu nhét đó. Không nên vừa đi, vừa mặc hay cởi áo Tràng mà phải đứng yên thong thả mặc áo xong rồi mới đi.
   Đến chùa hay đi bất cứ ở đâu, dép guốc phải để ngay ngắn, không dẫm lên dép của người khác. Khi đi, không kéo lê dép hoặc giẫm mạnh xuống nền gạch tạo ra tiếng kêu ồn ào, làm động niệm và ảnh hưởng tới sự tu học của người khác. Không chạy nhảy, cười giỡn, huýt gió, ca hát, nói lớn tiếng, gọi từ xa trong khuôn viên chùa. Khi đã uống bia, rượu thì không nên đi đến chùa. Không viện cớ nói dối người nhà là mình đi chùa, nhưng lại đi làm việc khác. 
Chương II: Tiếp xúc với quý Tăng Ni
   Khi chào quý Thầy (quý Sư cô) thì phải chắp tay ngang ngực cúi đầu và cung kính. Không nên vừa đi vừa xá chào Thầy hoặc đứng trên cao còn Thầy ở dưới thấp. Không đội mũ nón, đeo kính đen, mặc quần ống cao, ống thấp lôi thôi mà chào Thầy. Không mặc áo quần hở hang đứng ngồi nói chuyện với Thầy. Không ngồi ngả nghiêng hoặc dựa vào tường vách. Không ngồi lắc lư, rung đùi, đong đưa hai chân hay nhịp chân. Nên ngồi trong tư thế ngay thẳng, an ổn và mắt hướng về Thầy. Khi rời khỏi chỗ ngồi, nhớ sắp xếp bàn ghế lại cho ngay ngắn và nhẹ nhàng.
  Không nên đi ngang qua gần trước mặt Thầy, trừ khi không còn lối đi nào khác. Không nên đi, đứng hoặc ngồi xoay lưng trước mặt Thầy, trừ khi có những lễ hội đông người và không còn chỗ ngồi nào khác. Khi nói chuyện với Thầy không chắp tay sau lưng, hút thuốc, đứng đối diện, chống nạnh hoặc cách Thầy quá xa, nên đứng dịch qua một bên và gần Thầy để thưa chuyện.
   Thầy đang nói chuyện với ai thì không xen vào ngắt lời. Khi gặp Thầy chỉ hỏi những vấn đề liên quan đến sự tu học hoặc việc quan trọng khác, không nên hỏi những chuyện vu vơ, linh tinh.
  Khi Thầy đang ăn cơm, tụng kinh, ngồi thiền, làm lễ… thì không đến thưa hỏi mà chỉ lặng lẽ xá chào và lui ra chờ đợi. Khi thấy Thầy đi đến chỗ mình thì phải đứng dậy chắp tay cung kính xá chào.
   Không nên bàn tán việc tốt xấu, đúng hay sai của quý Thầy khiến cho người khác mất tín tâm đối với Tam bảo. Nếu trông thấy một vị xuất gia nào đó không giữ gìn uy nghi giới luật thì nên đi đến chắp tay xá chào và thưa chuyện với thái độ cung kính, chân tình để biết rõ ràng về sự việc. Chứ không nên vội vàng phê phán và đi loan truyền cho những người khác biết, trong khi đó mình chưa hiểu rõ được vấn đề. Nếu lỡ vị xuất gia ấy thực sự sai phạm luật nghi thì cũng nhờ vào ngôn từ ái ngữ và thái độ cung kính của mình mà có thể giúp cho vị ấy điều chỉnh lại hành vi sai trái.
   Người Phật tử đi ra đường gặp các vị xuất gia thì nên chắp tay cung kính xá chào. Khi trông thấy người xuất gia ôm bình bát đi khất thực thì nên đem thực phẩm đến dâng cúng và chỉ bỏ vào bình bát vị ấy những loại thức ăn, chứ không nên cúng dường tiền bạc. Nếu thấy các vị đi khất thực sau mười hai giờ trưa thì phải biết rằng, họ là những người giả dạng. Bởi người xuất gia chỉ đi khất thực từ sáng sớm cho đến trưa là trở về chùa để thọ trai, chứ không bao giờ đi sau giờ Ngọ.
   Đừng bao giờ trước mặt quý Thầy thì tỏ vẻ bằng lòng, nhưng sau lưng lại đem ra bàn luận chuyện phải trái, đúng sai. Nếu ta chưa thấu hiểu điều gì thì cứ thật lòng trình bày với Thầy, không nên biết rồi mà còn hỏi thử. Thầy có dạy bảo điều gì, nên chắp tay trang nghiêm và lắng lòng nghe.
   Phật tử đã phát tâm cúng dường cho chùa thì không yêu cầu hoặc đề nghị quý Thầy phải làm theo ý của mình. Vì yêu cầu quý Thầy làm theo ý mình thì sẽ suy giảm phước đức của sự cúng dường và tăng thêm lòng ngã mạn.
  Nếu muốn mua vật dụng cá nhân để cúng dường cho quý Thầy thì nên thưa hỏi trước, để thuận tiện cho sự tu học và phù hợp với sức khỏe của quý Thầy. Nếu muốn cúng dường tịnh tài, tịnh vật cho quý Thầy thì nên bỏ vào phong bì kín đáo, trang trọng và với tâm thành kính.
  Nếu muốn cúng dường riêng cho một Thầy thì không nên kết nghĩa làm cha mẹ, anh, chị, em nuôi. Người xuất gia đã ra khỏi nhà thế tục, cắt bỏ những ân ái buộc ràng, để gia nhập vào Tăng đoàn xuất thế và là những người đại diện cho Tăng bảo. Vì vậy, không thể nhận người cư sĩ tại gia làm cha mẹ hay anh, chị, em nuôi.
   Trong các buổi lễ hay học giáo lý, bao giờ Phật tử cũng phải vào trước để ổn định trang nghiêm và chắp tay xá chào khi Thầy bước vào. Thầy giảng giải có điều gì chưa hiểu thì hãy suy nghĩ cho kỹ càng chứ không cho rằng, Thầy nói dở hoặc kinh nói sai. Bởi mình còn là phàm phu trí lực hạn hẹp chưa thể hiểu tới, do đó không nên tùy tiện nói năng bừa bãi mà tạo tội lỗi. Nếu Thầy có nói thiếu sót điều gì thì hãy đến gặp Thầy và trình bày với cái tâm chân thật.
   Nếu muốn tham vấn những gì bế tắc đang gặp phải trong đời sống hằng ngày thì nên thưa trước với Thầy, để Thầy tiện sắp xếp công việc và thời gian mà giảng dạy, chứ không nên tùy tiện lúc nào cũng hỏi. Nếu Thầy đã hoan hỷ đồng ý giảng giải và hẹn giờ gặp thì phải đến đúng giờ. Nếu có công việc đột xuất thì nên gọi điện thoại thưa cho Thầy biết. Tránh gọi điện thoại tới chùa vào những giờ chỉ tịnh (giờ nghĩ ngơi, tịnh niệm), trừ khi có công việc quan trọng.
   Nếu muốn đọc tụng kinh sách thì nên thưa thỉnh quý Thầy chỉ dẫn cho ta biết, cần phải đọc tụng những kinh sách gì cho phù hợp với căn cơ tu tập. Phải biết trân quý kinh sách như tôn kính đức Phật và nên giữ gìn cẩn thận, không tùy tiện bạ đâu để đó. Nếu thấy kinh sách dính bụi bặm thì lấy khăn lau chùi sạch sẽ, chứ không nên dùng miệng để thổi.
  Muốn thưa hỏi việc gì với Thầy, trước tiên nên nói câu: “Mô Phật bạch Thầy”. Khi Thầy hỏi hay dạy bảo điều gì thì nên dùng câu “Mô Phật” để trả lời, chứ không gật đầu hay làm thinh. Xưng hô với Thầy lúc nào cũng xưng Thầy với con, cho dù Phật tử lớn đến 100 tuổi. Không nên gọi Thầy ơi và gọi lớn tên của Thầy giữa khoảng cách xa mà phải đến gần bên Thầy rồi thưa hỏi. Quý Thầy là đại diện cho Tăng bảo, cho nên phải biết kính trọng quý Thầy như nhau, chứ không nên phân biệt tuổi tác, hạ lạp.
   Là người Phật tử thì khi đi đến chùa hoặc gặp mặt nhau ở những nơi khác cũng nên xưng hô bằng pháp danh, hạn chế sử dụng tên đời và chắp tay búp sen xá chào nhau.
   Phật tử tại gia không được tùy tiện cạo tóc như người xuất gia. Nếu vì bị bệnh thì có thể cạo tóc, nhưng không được mặc y phục thể hiện hình tướng như người xuất gia. Vì ăn mặc như thế khiến cho mọi người lầm tưởng là tu sĩ, nên họ cung kính xá chào thì phước đức của mình sẽ bị suy giảm và nghiệp chướng nặng nề thêm lên.
Chương III. Thỉnh quý Tăng-Ni về nhà.
  Nếu có việc gì cần thỉnh quý Thầy thì y phục trang nghiêm và tác bạch tại phòng khách, trừ khi Thầy miễn lễ. Nếu muốn thỉnh quý Thầy về nhà làm lễ thì nên chuẩn bị trước mọi thứ cần thiết cho buổi lễ, để tạo thêm phần trang nghiêm và thanh tịnh. Trong các buổi lễ chỉ nên nấu nướng các món ăn chay, tức là làm bằng rau, củ quả thực vật để dâng cúng cho tổ tiên, ông bà và các loại cô hồn khác... Không nên dâng cúng thức ăn mặn, tức là làm bằng các loài động vật. Phải quét dọn, lau chùi sạch sẽ trên bàn thờ Phật và bàn thờ tổ tiên v.v.. trước khi quý Thầy đến nhà làm lễ. Mặt khác, phải biết bố trí chỗ ngồi nghỉ, khăn lau mặt, nước uống và các tiện nghi vệ sinh khác để khi quý Thầy cần sử dụng.
  Nước uống, hạn chế dùng những loại có hóa chất. Nên mời quý Thầy dùng nước ép trái cây, nước mía, nước rau má, sữa đậu nành, sữa chua hoặc nước lọc.
   Khi quý Thầy làm lễ thì mọi người trong gia đình phải quy tụ đầy đủ và cùng nhau chắp tay trì niệm theo sự hướng dẫn của quý Thầy. Khi có người thân qua đời thì đến trình bày cho Thầy biết sự việc, để Thầy hướng dẫn và sắp xếp tang sự. Không nên lo sợ và đi tìm các thầy bùa chú, thầy pháp thuật để xem ngày giờ, tốt xấu. Không nên giết hại các loài động vật để cúng tế khi người thân lâm chung. Bởi việc làm này chỉ tạo thêm ác nghiệp cho bản thân mình và gây ảnh hưởng xấu đối với vong linh.
   Khi biết người thân sắp qua đời thì nên đặt tượng Phật đối diện trước người bệnh, đồng thời mở máy niệm Phật hoặc những người thân trong gia đình cùng nhau niệm Phật, để trợ giúp cho người bệnh được ra đi nhẹ nhàng. Không nên than khóc, kêu réo. Bởi làm như vậy chỉ tạo thêm sự quyến luyến, tiếc nuối và sẽ hại đến cho người sắp lâm chung.
  Những buổi lễ diễn ra trong gia đình, các phật tử nên thỉnh quý Thầy thuyết giảng Phật pháp cho mọi người có cơ duyên thấm nhuần đạo lý, để ứng dụng vào trong cuộc sống hằng ngày được an vui và hạnh phúc!
Chương IV: Làm công quả
   Làm công quả cho chùa là một trong những pháp môn tu tạo phước đức. Do vậy, nếu Phật tử tại gia có thời gian và sức khỏe tốt thì hãy đến chùa để yểm trợ cho quý Thầy. Tuy nhiên, làm đến chiều ăn uống xong thì ra về, chứ không nên ở lại qua đêm, trừ khi được chư Tăng trong chùa chấp thuận.
   Nếu Phật tử muốn phụ giúp việc gì cho chùa thì phải thưa trước cho quý Thầy biết, chứ không nên tự ý làm. Phải làm việc trong sự hoan hỷ và hết lòng. Không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì khi làm công quả. Phải tùy vào sức khỏe và thì giờ cho phép, không nên cố gắng làm để rồi bê trễ công việc ở nhà.
   Nếu vào nhà bếp phụ giúp nấu ăn thì làm với tất cả tình thương và tài năng vốn có của mình. Nên ý thức rằng, làm việc ở trong bếp với tất cả sự chú tâm và hoan hỷ là một trong những pháp môn tu tạo phước đức cho tự thân, và cũng là phẩm vật cao quý để cúng dường cho đại chúng.
   Phải sắp xếp thời gian cho rộng rãi, đừng để làm trong trạng thái hối hả và hấp tấp. Đi đứng, nấu cơm, nấu canh, cắt gọt, xào rau v.v.. tất cả mọi hành động cần phải làm nhẹ nhàng và uy nghi. Không nên nói chuyện, nhất là những chuyện thị phi không dính líu gì đến sự tu học. Nếu cần hỏi hay nói gì về công việc với người bạn đồng tu thì nên nói ngắn gọn, nhỏ nhẹ vừa đủ nghe. Làm việc chung với các bạn đồng tu trong bếp cũng là dịp để hiểu và thương nhau hơn. Nên luôn luôn hội ý với nhau để công việc được điều hợp tốt đẹp.
    Trong lúc nấu ăn thì không nên để tâm trạng bực bội hoặc giận hờn, trách móc ai cả. Bởi khi tâm ý tiêu cực ấy biểu hiện thì sẽ tác động vào thức ăn, thức uống và nó tạo thành độc tố gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của đại chúng. Vì vậy khi nấu ăn, ta phải có tâm hồn an vui và tươi mát!
   Rửa rau thì nên rửa cho thật kỹ càng; bởi khi trồng rau, người ta phun thuốc trừ sâu rất nhiều. Vì vậy, khi rửa rau nên thay nước ít nhất là ba lần, và chỉ sử dụng những chiếc thau, chậu riêng cho việc rửa rau. Khi nấu nướng, luôn có những cái thìa riêng dùng để nêm nếm. Khi cần trộn thức ăn bằng hai tay, phải đeo găng tay. Khi sắp thức ăn, phải dùng đũa hoặc thìa. Không gãi đầu, ho hen hoặc khạc nhổ trong nhà bếp. Luôn luôn giữ hai tay cho sạch. Đi vệ sinh xong, phải rửa tay sạch sẽ trước khi tiếp tục công việc. Tránh đổ nước sôi vào bồn nước, ống cống hoặc đổ ra đất. Vì ta làm như thế, sẽ giết chết rất nhiều côn trùng. Các dụng cụ làm bếp sau khi sử dụng phải được lau rửa sạch sẽ và để lại vị trí cũ.
   Tránh vào nhà bếp, nếu không có phận sự trong đó. Tránh tụm ba, tụm năm ăn uống, đùa giỡn trong bếp. Không sử dụng chén bát của đại chúng để đựng thức ăn cho các con vật được nuôi trong chùa. Không nên nấu thức ăn mặn cho chó hoặc mèo. Không lấy bất cứ thứ gì ở chùa để đem về nhà dùng, trừ khi được quý Thầy cho phép.
Chương V: Ăn cơm
   Nghe chuông báo giờ thọ thực thì dừng lại mọi việc và tuần tự thứ lớp đi đến Trai đường. Nên kéo ghế nhẹ nhàng và thong thả ngồi xuống. Ngồi ngay thẳng và chờ quý Thầy hướng dẫn tụng kinh trước khi ăn. Trong khi ăn không được nói chuyện, không suy nghĩ việc quá khứ, tương lai chỉ nhiếp tâm tiếp xúc sâu sắc với thức ăn và mọi người quanh mình.
   Ngồi ăn như thế nào để có thể nuôi dưỡng sự hân hoan và niềm biết ơn trong suốt bữa ăn. Trân quý mỗi hạt cơm, mỗi miếng thức ăn, không để động tâm về chuyện ngon dở. Nhai thật kỹ thức ăn để tạo thành chất bổ dưỡng, và đồng thời giúp cho bao tử được dễ dàng tiêu hóa tốt. Khi nhai thức ăn nên ngậm miệng lại; không nên chép miệng, nhai nhóp nhép hoặc lua húp thành tiếng. Đừng ăn miếng quá lớn và tránh khua bát đũa ra tiếng. Không được đứng dậy giữa bữa ăn, không nên ăn xong đứng dậy trước, trừ khi có công việc quan trọng. Không nên bỏ thừa thức ăn. Buổi chiều nên dùng thức ăn nhẹ và ăn ít.
Chương VI: Vào nhà vệ sinh
    Ở chùa lúc nào cũng có nhà vệ sinh dành cho khách. Vì vậy, Phật tử không tùy tiện đi vào khu vực nhà vệ sinh của chư Tăng.
   Muốn đi đại tiện hay tiểu tiện thì nên đi ngay, đừng chần chờ hoặc đợi đến lúc bị thúc bách mới đi. Trước khi vào phải gõ cửa ba lần, dù biết trong ấy không có người. Không nên thúc dục người trong nhà vệ sinh ra nhanh. Không được đem kinh sách vào đọc. Không được mặc áo Tràng vào nhà vệ sinh. Không khạc nhổ hoặc rặn ra tiếng. Vệ sinh xong, phải dội nước sạch sẽ. Giấy vệ sinh dùng xong bỏ vào thùng cẩn thận, không được vứt bừa bãi. Nếu giấy hết thì đi lấy cuộn mới lắp vào cho người đến sau dùng.
       Tắm rửa và giặt giũ phải biết tiết kiệm nước và điện. Không nói cười, ca hát hoặc đọc kinh trong khi tắm. Đừng chiếm phòng tắm quá lâu để người tới sau chờ đợi. Không tiểu tiện trong nhà tắm. Không nên treo khăn hoặc quần áo của mình chồng lên vật của người khác. Không để vật cá nhân trong phòng tắm để tránh làm cản trở người đến sau. Xà phòng tắm và dầu gội đầu phải được sử dụng vừa phải, khi dùng xong nên để vào chỗ được quy định. Các chậu, thau khi sử dụng xong, cũng cần được rửa sạch và úp lại.
   Khi chải răng, không đi qua đi lại, nói chuyện và cười giỡn. Cúi thấp người xuống bồn khi chải răng, để tránh làm văng nước tung tóe xung quanh.
   Không hút thuốc, khạc nhổ nơi có người đi qua lại. Nếu cần thiết thì phải tìm chỗ kín đáo và cúi thấp người xuống để khạc nhổ. Khi ngáp hoặc xỉa răng phải lấy tay che miệng lại.
Chương VII: Quan hệ với bạn đồng tu
   Các Phật tử sinh hoạt chung trong một đạo tràng thì đôi lúc vẫn có sự hiểu lầm, nghi kị lẫn nhau. Do vậy, mỗi khi ta có khó khăn với một người nào đó thì phải tìm mọi cách để hóa giải khúc mắc ấy. Không đi than phiền về người đó với những người khác, nhất là đi tìm đồng minh để chống lại người đó. Đây là mầm mống của sự chia rẽ và xáo trộn. Vì vậy, bất cứ ai sinh hoạt trong đạo tràng cũng phải có bổn phận tìm cách hóa giải ngay từ buổi ban đầu. Luôn ý thức rằng, mỗi cử động, lời nói của ta rồi ai cũng sẽ biết và ta phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì ta đã làm và đã nói. Khi nói ra điều gì về một người nào đó thì nên nói trực tiếp với họ, đừng qua trung gian với người thứ hai.
   Nếu có người đến để than thở về những vấn đề của họ đối với người khác, ta hãy tập ngồi lắng nghe để có thể giúp cho người ấy bớt khổ. Lắng nghe với tâm rỗng rang và từ bi để thấu rõ cho hết cội nguồn. Căn cứ trên nhận thức độc lập của ta, và hãy nhìn sâu để hiểu được cả hai phía. Ta cũng nói cho người ấy nghe về những khó khăn, đau khổ cũng như điểm tích cực và dễ thương của người kia, để người ấy nhớ lại hoặc nhìn nhận đó là sự thực. Ta cũng khuyên người ấy đi tới với người kia để thiết lập lại sự truyền thông. Nếu cần, ta tình nguyện đi với người ấy và yểm trợ cho họ có khả năng nói ra hết sự thật. Ta tránh không liên minh với một người để chống lại người khác, tạo thành thế tam giác của sự tranh chấp. Nếu cảm thấy mình không có khả năng để hóa giải cho cả hai phía, thì nên trình bày sự việc một cách trung thực cho Thầy biết.
    Người Phật tử đến chùa thì chỉ lo việc học hỏi đạo lý và làm công quả để vun bồi phước đức, chứ không nên xen vào bàn luận việc sinh hoạt hoặc thời khóa tu tập của chư Tăng.
    Không nói chuyện thị phi, tốt xấu, đúng sai. Không đem những chuyện ở bên ngoài vào chùa bàn tán mà chỉ một lòng học hỏi và tu tập. Không đi loan truyền những tin tức mà mình không biết chắc chắn là có thật.
   Là người đi chùa trước thì phải có bổn phận chia sẻ cho những người đến sau hiểu rõ về việc sinh hoạt tu tập ở chùa. 
Chương VIII: Nghe pháp thoại
   Khi tham dự các khóa tu Phật Thất, Bát Quan Trai, khóa tu Một Ngày An Lạc v.v.. đều phải tắt nguồn điện thoại di động, hoặc cài đặt chế độ im lặng, để giữ gìn sự trang nghiêm và thanh tịnh.
  Nghe chuông báo giờ pháp thoại thì phải đi ngay, đừng bao giờ vào giảng đường sau vị pháp sư. Trong khi nghe Thầy thuyết giảng thì phải ngồi ngay thẳng, mắt hướng về vị giảng sư và lắng lòng nghe. Không tùy tiện đứng dậy đi ra, đi vào làm ảnh hưởng đến thính chúng. Nên đi nhà vệ sinh hoặc sắp xếp mọi công việc ổn định trước khi vào giảng đường nghe pháp.  
  Khi nghe pháp, tụng kinh, tọa thiền, niệm Phật, ăn cơm v.v.. không được dành chỗ ngồi, mà phải tuần tự thứ lớp, ai vào trước thì ngồi trước và ngồi trong tư thế  ngay ngắn, trang nghiêm.
   Giáo pháp của đức Thế Tôn được ví như một cơn mưa, có khả năng giúp cho những hạt giống tuệ giác và từ bi nằm trong đất tâm của ta được thấm nhuận, nẩy mầm và sinh trưởng. Vì vậy, trong khi nghe Thầy thuyết pháp, ta phải ngồi cho ngay thẳng với tất cả sự chú tâm và cung kính. Trong quá khứ đã có những người nhờ lắng tâm nghe pháp thoại mà giác ngộ đạo lý giải thoát. Khi Thầy thuyết giảng, nên chuẩn bị trước một quyển sổ nhỏ để ghi chép và chỉ nên ghi chép lại một số ý chính quan trọng.
   Không được ăn uống trong lúc nghe pháp thoại hoặc nói chuyện với người ngồi bên cạnh.
   Các thời khóa tu tập, đều phải đi đúng giờ quy định. Không được lề mề, trễ nải đi vào sau, để đại chúng chờ đợi.
Chương IX: Học hỏi đạo lý
   Mục đích của con người sống trên cuộc đời này là đạt đến sự an lạc và hạnh phúc. Nhưng muốn có hạnh phúc thực sự thì đòi hỏi con người ấy phải có từ bi và trí tuệ. Để sống trọn vẹn với hai chất liệu cao quý này thì chúng ta cần phải học hỏi đạo lý. Do vậy, người Phật tử nên tìm hiểu, tiếp cận và học hỏi đạo lý với chư Tăng-Ni, để tuệ giác vốn có trong ta được thắp sáng.
   Nếu là người không có điều kiện để đến chùa học đạo thì nên tìm hiểu, học hỏi qua những phương thức như sau: thỉnh băng dĩa, kinh sách tại các nhà phát hành kinh sách Phật giáo về nghe và đọc hoặc vào các website như là:
http://www.giacngo.vn,
http://www.xaydungtinhhuynhde
Hoặc download chương trình paltalk về máy và cài đặt, sau đó vào những Room Phật giáo để sinh hoạt và học hỏi. Mặt khác, có thể tham vấn với quý Thầy, quý Sư cô qua điện thoại hoặc gửi email… để được giải đáp.
   Những người đã phát nguyện quy y Tam bảo và thọ trì Ngũ giới rồi thì phải dành thì giờ để đi chùa học hỏi đạo lý, chứ không nên chỉ đến chùa cúng dường lễ lạy rồi ra về.
   Người Phật tử tại gia mỗi khi đã tiếp nhận Ngũ giới, Bát Quan Trai giới hay là Bồ-tát giới thì ít nhất trong mỗi tháng phải đến chùa đọc tụng hoặc thỉnh quý Thầy giảng dạy về ý nghĩa và nội dung những luật nghi mà mình đã thọ. Mặt khác, các Phật tử cũng nên chia sẻ, trao đổi với nhau để cho việc hành trì giới luật đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.
   Các Phật tử không nên bình luận đúng sai, tốt xấu về các đạo giáo khác. Không cho rằng, pháp môn của mình đang tu tập là đúng nhất và xem thường, chê bai những pháp môn, tông phái  khác. Bởi các tông phái được hình thành là do đáp ứng nhu cầu cho từng hoàn cảnh, xã hội và căn tánh của mỗi chúng sinh sai khác. Vì thế cho nên, các pháp môn tu tập cũng cần phải có sự uyển chuyển, linh động và thêm phần sáng tạo, nhằm đáp ứng cho đời một cách khế cơ.
Chương X: Thờ Phật và lạy Phật
    Nếu muốn thỉnh hình tượng Phật, Bồ-tát về nhà để thờ thì không nên chọn hình tượng có sơn phết màu đỏ lên môi, móng tay và móng chân của Ngài. Bởi vì nếp sống của đức Phật rất là giản dị, không bao giờ Thế Tôn ăn mặc lòe loẹt như vậy cả. Do một số nhà làm tượng không hiểu đạo lý, nên đã họa vẽ sai lệch, làm mất đi tính giản dị và uy nghiêm của Ngài. Vì vậy, nếu Phật tử muốn thỉnh tượng Phật về nhà thờ thì nên thưa trước cho Thầy biết, để quý Thầy hướng dẫn và làm lễ An vị.
   Thiết kế bàn thờ Phật và Bồ-tát tại tư gia bao giờ cũng để trước hoặc trên bàn thờ tổ tiên. Bố trí bàn thờ không cao hơn đầu người đứng. Vì nếu quá cao thì khó khăn cho việc thắp hương và không thấy rõ bụi bặm để quét dọn lau chùi, cũng như leo lên, leo xuống khá nguy hiểm cho những người lớn tuổi. Mặt khác, thờ Phật quá cao thì ta ít khi để ý tới hình ảnh của Ngài hơn so với ngang tầm mắt. Nếu để hình tượng đức Phật ở những nơi mà hàng ngày ta dễ dàng tiếp xúc thì khi nhìn thấy hình ảnh của Ngài sẽ giúp ta rơi rụng những phiền muộn và lo âu. Do vậy, việc thiết kế và thờ phụng rất là quan trọng.
   Nên thường xuyên lau chùi bụi bặm và rút chân nhang trên bàn thờ mỗi ngày. Khi vào nhà ai thấy có thờ Phật, Bồ-tát, chư vị Tổ sư thì nên chắp tay cung kính xá chào và chờ người chủ nhà mời thì mới ngồi xuống.
   Khi đi vào chánh điện thì không đội mũ nón hoặc mang dép vào. Không cười giỡn, nói lớn tiếng, huýt gió, ca hát, gọi điện thoại. Mũ nón, áo ấm, túi xách v.v.. phải để đúng nơi quy định. Nếu đem hoa quả, hương đèn, các lễ phẩm đến chùa cúng Phật thì nên đưa cho quý Thầy tùy nghi chưng dọn cho phù hợp, chứ không nên tùy tiện đặt để.
  Nếu muốn cúng dường tiền bạc thì hãy bỏ vào thùng công đức. Không nên để lung tung trên các bàn thờ Phật hoặc nhét tiền lên hình tượng đức Phật, Bồ-tát và chư vị A-la-hán. Không nên lấy tay xoa vuốt trên hình tượng đức Phật, Bồ-tát và rồi bôi xoa lên thân thể của mình. Bởi vì hành động này, chỉ dành riêng cho những người thiếu sự hiểu biết và mê mờ, họ xem đức Phật như một vị thần linh có quyền năng ban phúc giáng họa, nên mới thể hiện hành động đó. Còn người Phật tử chân chính, hiểu rõ đạo lý nhân quả thì không bao giờ làm như vậy.
  Không tùy tiện đánh chuông, trống hay bất cứ pháp khí nào ở trong chùa. Khi có người đang lễ lạy thì không được đi ngang qua trước mặt. Khi đi ngang qua bàn thờ Phật thì phải cúi đầu. Không chắp tay sau lưng đứng trước tượng Phật và chư vị Bồ-tát.
   Không dùng miệng thổi nhang hay đèn khi thờ Phật. Không cầm nhang vừa đi vừa đánh xa (vẫy tay). Mỗi lư hương chỉ cắm một cây nhang, nếu thấy trên lư hương đã có nhang rồi thì chỉ tới lễ lạy thôi chứ không nên đốt thêm nhang.
 Khi lễ Phật thì áo quần phải chỉnh tề, trang nghiêm và thanh tịnh. Chắp tay ngang ngực, các ngón tay không so le, tay không cầm vật gì. Không đụng các ngón tay vào cằm hoặc vào lỗ mũi. Khi lạy, đưa hai tay lên ngang trán, rồi hạ xuống ngang ngực trước khi xòe hai tay sang hai bên và lạy xuống. Lạy Phật, năm vóc (đầu, hai tay, hai chân) phải sát đất. Hai bàn chân duỗi thẳng ra, mông áp sát xuống chạm vào hai lòng bàn chân. Tâm thành kính và đọc thầm danh hiệu của Ngài. Khi vừa mới ăn cơm no, thì không nên lễ lạy, vì không tốt cho hệ tiêu hóa.
   Không nên xem đức Phật như một vị thần linh có công năng ban phúc giáng họa. Phải hiểu rằng, đức Phật là người cha lành của nhân loại, là bậc Thầy có đầy đủ từ bi và trí tuệ để cứu giúp cho chúng sinh thoát khỏi luân hồi sinh tử. Vì cảm niệm công ơn sâu dày ấy, nên chúng ta thành tâm cúng dường và lễ lạy. Mặt khác, lạy Phật giúp ta diệt trừ tham sân si, cống cao ngã mạn và tiêu trừ nghiệp chướng sâu dày, phước đức ngày càng tăng trưởng.
   Là người Phật tử thì không lễ lạy cầu xin mua may bán đắt, xem xăm bói quẻ, nhảy đồng bóng, đốt giấy tiền vàng mã, tin ông này, bà nọ linh thiêng. Những hình thức như thế, chỉ là phương tiện để dẫn dắt cho những người mê mờ đến với đạo, còn đối với người Phật tử chân chính thì phải tin nhân quả nghiệp báo.
   Người Phật tử đã quy Tam bảo rồi thì không quy y ngoại đạo tà giáo. Không nghe các học thuyết hoặc những huyền bí nào đó loan truyền một cách vu vơ. Những tác phẩm hoặc băng đĩa v.v.. không có ghi tên tác giả và chưa biết rõ nguồn gốc như thế nào thì không nên xem. Các vị cần phải thưa hỏi với quý Thầy về những ấn phẩm ấy, để cho việc tu học đúng với chánh pháp. Đức Thế Tôn đã từng dạy rằng, tất cả những việc tốt và xấu xảy đến với chúng ta ngày hôm nay, là do cái nhân ta đã gieo trồng từ trước mà có. Do vậy, người Phật tử chân chính thì phải tin nhân quả nghiệp báo, gieo nhân tốt thì gặp quả tốt, chứ không tin vu vơ rồi đi cầu xin ông này, bà nọ.
   Là người Phật tử với nhau thì phải có bổn phận khích lệ và sách tấn các bạn đồng tu siêng năng đi chùa học đạo.
Chương X: Ngồi thiền, kinh hành, tụng kinh và niệm Phật.
    Nghe chuông báo giờ ngồi thiền, phải lập tức ngưng mọi công việc và xem như giờ thiền tập bắt đầu ngay từ lúc ấy. Theo dõi hơi thở có ý thức trong mỗi bước chân đi đến thiền đường. Ngồi thiền là cơ hội để thu nhiếp thân tâm, chế tác chất liệu an lạc và thảnh thơi. Ngồi thiền với đại chúng, ta có thể thừa hưởng năng lượng tập thể và giúp cho ta thực tập dễ dàng hơn.
   Nên mặc áo quần mỏng nhẹ và rộng rãi trong khi tọa thiền. Ngồi xuống rồi, lập tức khởi sự điều chỉnh tư thế ngồi và hơi thở. Ngồi lưng thật thẳng mà không cứng. Đầu ngay ngắn, không cúi xuống và cũng không ngửa ra. Đầu và sống lưng làm thành một đường thẳng. Bàn tay phải đặt nhẹ lên bàn tay trái. Buông thư tất cả các bắp thịt, từ các bắp thịt trên mặt xuống đến các bắp thịt trên vai, lưng, cánh tay, bụng và chân. Ngồi thật thoải mái và buông thư, đừng gò bó, đừng gồng mình. Mắt có thể nhắm hoặc mở hé, nhìn xuống khoảng chừng một thước phía trước mặt. Ta nắm lấy hơi thở vào và hơi thở ra để điều phục thân và tâm. Trong suốt buổi ngồi thiền, sử dụng hơi thở có ý thức, đưa tâm về lại với thân, tạo ra trạng thái thân tâm nhất như, duy trì sự tĩnh lặng và sáng suốt.
   Nếu thân thể bị đau nhức thì nên sửa lại thế ngồi, miễn là mỗi động tác được đặt trong chánh niệm tỉnh thức và tránh tạo ra tiếng động, làm ảnh hưởng đến người ngồi bên cạnh.
   Xả thiền cần phải nhẹ nhàng, không nên thô tháo. Trước tiên, lay động nhẹ đầu về phía trái rồi sang phía phải. Sau đó, xát nhẹ hai bàn tay rồi ấp lên hai mắt cho có sức ấm. Dùng tay xoa bóp từ trên đỉnh đầu xuống toàn thân. Xoa bóp các bắp thịt trên mặt, vai, lưng, ngực, bụng, hai cánh tay và bắp chân. Mỗi nơi xoa bóp khoảng chừng hai mươi lần. Và luôn luôn rõ biết từng hoạt động của cơ thể trong khi xả thiền.
   Sau giờ ngồi thiền, ta thực tập đi kinh hành hoặc tụng kinh. Kinh hành là đi chậm rãi khoan thai, mỗi bước chân phối hợp với hơi thở vào hay một hơi thở ra. Ta đi thật tự nhiên, nhẹ nhàng và duy trì khoảng cách giữa ta và người đi trước ít nhất là một mét. Đừng nhìn qua, nhìn lại mà hãy chú tâm tới sự xúc chạm giữa bàn chân và mặt đất. Buông lỏng toàn thân, trên khuôn mặt điểm nhẹ nụ cười hàm tiếu, mỗi bước đi đều có khả năng tỏa chiếu sự thảnh thơi và tự tại như đi trong thế giới của Tịnh độ không khác.
    Khi tụng kinh, phải để hết tâm ý vào lời kinh. Nên chú ý từng nhịp mõ để tụng theo với đại chúng cho đều đặn. Không nên bắt giọng quá cao hay quá thấp, mà mỗi âm điệu phải hòa vào với đại chúng.
    Khi niệm danh hiệu Phật hoặc chư vị Bồ-tát thì tâm ý phải bám sát vào danh hiệu của các Ngài. Tâm luôn luôn rõ biết từng chữ một; từ chữ đầu tiên cho đến chữ cuối cùng không để kẽ hở. Nghĩa là, không có những ý niệm khác xen lẫn vào, tâm chỉ thuần túy và trọn vẹn với câu niệm Phật.
Chương XII: Bảo vệ môi trường
   Người Phật tử phải ý thức về việc bảo vệ môi trường xanh, sạch và đẹp từ trong nhà ra ngoài xã hội. Bất cứ đi đến đâu cũng không tùy tiện xả rác bừa bãi. Bởi tình trạng trái đất bị hâm nóng đã đưa đến nguy cơ động đất, sóng thần, bão lụt... làm phát sinh nhiều bệnh tật và giết chết hàng trăm triệu người trên thế giới. Là học trò của đức Thế Tôn thì phải có lòng từ bi thương xót mọi loài chúng sinh. Tích cực tham gia bảo vệ môi trường, chăm sóc và trồng thêm nhiều cây rừng, nhằm đem lại sự mát mẻ, an bình cho tự thân và cho cộng đồng xã hội.
  Ở trong gia đình chúng ta cần phải biết sử dụng các tiện nghi vừa đủ, không nên tiêu sài quá phung phí. Khi dùng điện nước phải hết sức tiết kiệm. Nhớ tắt máy vi tính hoặc các loại máy móc khác sau khi đã sử dụng. Nên dùng loại bóng đèn có thể tiết kiệm được năng lượng. Đi ra khỏi phòng phải nhớ tắt đèn. Nếu không có việc gì cần thiết thì hạn chế việc đi lại, nhằm tiết kiệm xăng dầu và giảm thiểu chất CO2  thải ra làm ô nhiễm môi trường.
   Thuốc lau chùi, xà phòng giặt, giấy vệ sinh, giấy viết thư v.v.. nên dùng loại hữu cơ để các thứ này có thể dễ dàng chuyển hóa trở lại. Trong vườn nhà, nên trồng rau trái theo phương thức “sạch”, nghĩa là không nên sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học.
   Bao túi ny-lông rất khó phân hủy, dồn chứa lâu ngày sẽ tạo thành những đống rác khổng lồ. Vì vậy, khi đi chợ ta nên đem theo giỏ xách để đựng vật dụng, nhằm giảm thiểu sử dụng túi bao ny-lông.
   Chuyển hóa tất cả những thứ rác nào có thể chuyển hóa được như giấy, nhựa, hộp thiếc, thủy tinh, dầu ăn đã chiên nhiều lần, dầu từ máy móc, pin, gỗ cũ, cành lá v.v.. Trước khi đem bỏ thùng rác, ta nên phân loại kỹ lưỡng. Giấy màu, giấy dầu, giấy báo, giấy có chất nhôm và bìa cứng, mỗi loại đều phải để riêng và cột lại thành từng bó. Các chai nhựa phải được súc sạch, tháo nắp để riêng và đạp dẹp để không chiếm chỗ. Sau khi xắt gọt và lặt rau, các loại vỏ trái cây, củ, cuống rau và lá hư đều được cắt nhỏ để dùng làm phân xanh. Trong trường hợp chưa làm kịp, nên đậy lại để tránh ruồi muỗi.
  Người Phật tử đến chùa phải nắm vững những uy nghi này, bởi đây là vấn đề căn bản ở bước đầu học Phật, mà Phật tử tại gia cần phải hiểu biết. Nếu chúng ta đến chùa nhưng không hiểu gì về những luật nghi như đã trình bày ở trên thì sẽ dễ dàng tạo ra phiền não, tội lỗi. Vì vậy, chúng ta cần phải học hỏi và thực tập để xứng đáng là người Phật tử chân chính, nhằm góp phần xây dựng nếp sống tốt đẹp, văn minh cho gia đình và cho cộng đồng xã hội .
      Kính chúc quý vị tinh tấn tu tập.
      Thân cận người xuất gia
      Học hỏi và thực tập
      Chuyển hóa nghiệp xấu ác
      Là phước đức lớn nhất.

Nghệ thuật uống trà!

Có nhiều người rất thích uống trà, từ những kẻ bình dân cho đến nhân sĩ trí thức đều biết phương cách uống trà. Tuy nhiên, uống trà như thế nào để thiết lập được sự truyền thông tốt đẹp giữa các thành viên trong một tổ chức, những người thân yêu trong gia đình hiểu nhau và thương yêu nhau nhiều hơn là vấn đề hết sức quan trọng, mà đòi hỏi mỗi người cần phải biết nghệ thuật của việc uống trà. Thông thường, chúng ta uống trà chỉ vì quan hệ làm kinh tế hoặc ngồi lại bàn tán, bình phẩm những thông tin thời sự đó đây… chứ ta không có mặt thực sự để thưởng thức hương vị thơm ngon của trà, cũng như không tiếp xúc trọn vẹn với người bạn đang ngồi bên cạnh. Theo kinh nghiệm của người xưa cho thấy, nếu chúng ta uống trà với thái độ nôn nóng, hấp tấp và hờ hững với hiện tại thì chẳng có ít lợi gì cả, mà trái lại bỏ phí khá nhiều thì giờ vô bổ. Bởi thói quen của ta, mỗi khi ngồi lại bên nhau uống trà thì hay nói những câu chuyện mang tính chất lý luận hơn thua, dẫn đến việc tranh cãi và cuối cùng tạo ra sự xung đột, mất đoàn kết. Vì lẽ đó, nên chư vị tiền bối đã nhắc nhở chúng ta nhớ rằng: “Bất đắc đơn thượng tương tụ bãi trà, dạ tọa tạp thoại. (Không được trên đơn xúm nhau bày trà, ngồi đêm, nói tạp)”(Luật Sa Di và Sa Di Ni). Vì thế, chúng ta uống trà như thế nào để cho tâm hồn được lắng đọng yên tịnh, nhằm khai mở sự hiểu biết và tình thương yêu trong ta biểu hiện, thì cả một nghệ thuật lớn lao, mà tự mỗi người cần phải chiêm nghiệm.
Nghệ thuật là phương thức giàu tính sáng tạo và khế hợp với thực tại, mà bất cứ ngành nghề nào cũng cần biết đến. Ví như, một người bình thường muốn trở thành cầu thủ bóng đá xuất sắc, thì vị ấy phải biết những nguyên tắc, kỷ thuật trong việc luyện tập chơi bóng và cộng thêm phần nhạy bén sáng tạo của tự thân, người ấy sẽ dễ dàng đạt được kết quả tốt đẹp. Uống trà cũng vậy, đòi hỏi bạn phải có thái độ bình thản và thong dong trong khi thưởng thức trà. Nếu bạn thực sự để hết tâm tư vào tách trà đang uống, mà không suy tính những công chuyện khác thì ngay trong giây phút ấy bạn sẽ thấu hiểu được thế nào là nghệ thuật uống trà.
Ở các nước láng giềng như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Tạng và Trung Hoa, họ đều có những phong cách uống trà khá vững chãi. Đặc biệt ở Nhật Bản, đa số dân chúng của họ đều biết các kỷ thuật pha chế trà và thưởng thức trà với phong thái nhẹ nhàng và sâu lắng, nên được mệnh danh là Trà đạo. Tại Việt Nam của chúng ta, mặc dù chưa phát triển mô hình trà đạo, nhưng hầu hết mọi người dân ai ai cũng biết uống trà. Mỗi buổi sáng thức dậy, các vị ở độ tuổi trung niên trở lên thường uống một vài ấm trà nóng trước khi họ vác cuốc ra đồng hoặc lái xe đi làm việc. Đối với các nhà thơ, nhà văn và những người làm công tác báo chí thì việc uống trà trở nên quá quen thuộc. Bởi khi nhâm nhi một vài tách trà sẽ giúp cho tâm trí họ tỉnh táo và sáng suốt hơn trong khi đặt bút viết bài. Mặt khác, hương vị của trà thật nhẹ nhàng và dễ chịu, không chứa đựng các chất kích thích giống như bia hoặc rượu, nên tâm tư người thưởng thức trà rất dễ dàng trầm tĩnh và sâu lắng.
        Ở chốn Thiền môn, các vị xuất gia lấy trà làm bạn đạo. Bởi nếp sống ở trong chùa rất đơn giản; mỗi khi huynh đệ có cơ duyên hội ngộ bên nhau thì chỉ tiếp đãi bằng một vài ấm trà, để rồi cùng nhau thưởng thức và trao đổi những kinh nghiệm tu hành, cũng như chiêm nghiệm lại chính bản thân mình trong quá trình học đạo. Thỉnh thoảng giữa tình huynh - đệ và Thầy - trò vẫn có những hiểu lầm hay buồn phiền lẫn nhau, nhưng khi ngồi lại bên nhau để uống trà và chia sẻ đạo lý thì yếu tố tiêu cực kia tự động được hóa giải một cách nhanh chống. Đây chính là nghệ thuật xây dựng tình huynh đệ khá độc đáo, mà đòi hỏi trong khi uống trà, mỗi người cần phải có thái độ bình thản mới có thể thấy ra được sự thật ấy.
Qua những lần uống trà, người viết đã tùy hứng làm mấy vần thơ ngắn, để nói lên tâm trạng của mình như sau:
Uống trà
Thong dong mỗi tách trà
Tâm rỗng lặng bao la
Uống trà trong nắng sớm
Vườn tâm đầy hương hoa.
Trà đạo
Trà thơm một chén, nâng trên tay
Ý lặng hòa chung, cảnh hiện bày
Hương trà tỏa ngát, tâm tỏ rạng
Thâm sâu trà đạo, ở nơi đây.
         Khi nâng chén trà lên uống, bạn phải rõ biết từng diễn biến đang xảy ra ở nơi thân tâm mình và hoàn cảnh đương tại. Nghĩa là bạn tiếp xúc trọn vẹn với thực tại ở đây, mà không để cho tâm ý của mình rong ruỗi hay phiêu du một nơi nào khác. Khi tâm hồn tĩnh lặng và sáng tỏ thực sự, bạn sẽ cảm nhận được hương vị thơm ngon của trà, đồng thời trạng thái an lạc, hạnh phúc cũng từ đây mà biểu hiện. Nếu bạn uống trà được như vậy, thì đó chính là đỉnh cao của nghệ thuật trà đạo.
Trong bối cảnh của xã hội ngày nay, đa phần con người bận rộn quá nhiều; bởi do áp lực từ công việc và học hành, nên ít ai có thì giờ rảnh rỗi ngồi yên để nhâm nhi một vài tách trà. Vì đáp ứng nhu cầu cuộc sống, cho nên từ sáng sớm thức dậy mãi đến chiều tối, tâm ý lúc nào cũng suy tính, lo toan và tất bật ngược xuôi trên mọi nẻo đường với mục đích là đem lại lợi ích cho đời sống. Do đó, nhiều lúc những người thân thương trong gia đình hiếm khi có cơ hội ngồi lại bên nhau để tâm tình, chia sẻ. Bởi ai cũng tranh thủ muốn kiếm cho thật nhiều tiền, để xây dựng nhà cửa khang trang và mua sắm nhiều tiện nghi sang trọng khác, nhằm đáp ứng mục tiêu mà con người hướng tới…
Mặc dù của cải vật chất đầy đủ và người ta mặc sức ăn chơi, hưởng thụ như thế. Nhưng, về phương diện tinh thần thì bất cứ ai cũng có thể gặp phải những bế tắc và bất an xảy ra trong cuộc sống, dù ít hay nhiều. Từ những chuyện trắc trở tình cảm giữa vợ đối với chồng, cha mẹ và con cái thiếu sự truyền thông với nhau, cũng như việc giảng dạy của các thầy cô giáo đối với những em sinh viên, học sinh vào thời đại ngày nay, cũng gặp khá nhiều vấn đề phức tạp và nan giải.
Để điều chỉnh nhận thức sai lầm và hóa giải những bế tắc trong cuộc sống, bạn cần phải thường trực trở về với chính mình. Mỗi ngày, bạn nên dành một ít thì giờ ngồi yên và lắng đọng tâm tư, để cho cơ thể được yên nghỉ sau một ngày lao động mệt nhọc. Cho dù ngồi bất cứ ở nơi đâu, bạn cũng có thể buông thư toàn thân và ghi nhận dòng diễn biến xảy ra ở thân tâm mình trong trạng thái sáng tỏ và tỉnh giác. Nhờ sự thực tập này, nên những căng thẳng, bất an được hóa giải một cách hữu hiệu, đem lại sự định tĩnh và sâu lắng cho tâm hồn. Bên cạnh đó, việc uống trà với trạng thái bình thản và thong dong cũng là vấn đề vô cùng quan trọng, bởi nó có khả năng giúp cho tâm trí bạn trở nên an tịnh và trong sáng. Thực ra, nghệ thuật uống trà rất đơn giản, không quá nặng nề về các hình thức, nghi lễ… nhưng nó mang lại chất lượng tốt đẹp cho đời sống của bạn. Mỗi khi nâng tách trà lên uống, bạn chỉ cần để hết tâm ý vào tách trà và có mặt trọn vẹn với phút giây ấy, mà không tính toán hay nghĩ ngợi chuyện gì cả, thì đó chính là nội dung sâu sắc nhất của nghệ thuật uống trà.
Viên Ngộ

Thứ Tư, 18 tháng 5, 2011

Thấy rõ khổ để bớt khổ!


Sống ở cuộc đời này, bất cứ người nào cũng có những nỗi khổ niềm đau, dù ít hay nhiều. Bởi thân thể ta đau nhức là khổ, giận hờn là khổ, tiếc thương cũng khổ… Có rất nhiều yếu tố đem lại cho ta đau khổ, nhưng chung quy đều xuất phát từ chính bản thân của mình.
Khổ, là một sự thật hiển nhiên không một ai có thể phủ nhận lẽ thật ấy (Khổ đế). Bất cứ ở nơi nào trên thế giới này, cho dù ở đó ta có nhiều tiền bạc, bằng cấp, địa vị hay uy quyền thì vẫn bị phiền não và khổ đau chi phối. Bởi mỗi khi ta chưa nhận diện và chuyển hóa được những hạt giống giận hờn, tham lam, buồn tủi, lo lắng, sợ hãi, ghen tị, trách móc… ở trong mảnh đất tâm của mình thì sẽ dễ dàng bị sợi dây phiền não trói buộc và sai sử. Tuy nhiên, hạnh phúc hay vắng mặt khổ đau cũng là một sự thật khác (Diệt đế). Nếu như ngay tại đây, ta thấy rõ ràng từng diễn biến xảy ra ở thân tâm mình và hoàn cảnh xung quanh trong trạng thái sáng suốt, khách quan và trung thực thì khổ đau không có cơ hội để biểu hiện. Trong kinh Tứ niệm xứ, đức Thế Tôn dạy rằng:
“…Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời…”(Kinh Trung Bộ, tập I).
Nhiệt tâm hay tinh cần ở đây, không phải là sự cố gắng, nỗ lực của cái ta tham vọng, mà chỉ cần không giãi đãi hoặc không hời hợt trong việc chú tâm quan sát đối tượng đang là. Chánh niệm, nghĩa là ta không bỏ quên thực tại hay bị giao động theo trần cảnh, mà luôn trực diện với chính mình. Tỉnh giác, tức là cái thấy biết trong sáng, khách quan, trung thực không bị che mờ bởi do sự điều động của ý thức hay quan điểm, tư tưởng chủ quan.
Vậy thì, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời, có nghĩa là: ta chỉ cần thấu rõ mọi diễn biến ở thân tâm mình cũng như hoàn cảnh đương tại, và có mặt trọn vẹn với chính nó. Hiện cảnh ấy như thế nào ta nhận biết y như thế đó, chứ đừng thêu dệt hay thêm bớt gì nữa cả thì ta không bị bản ngã tham sân si trói buộc.
Thực ra, khổ chỉ xuất phát khi tâm ý vướng mắc vào đối tượng, hoặc có ý niệm muốn loại trừ đối tượng đó. Còn ngược lại, khi ta tiếp xúc với mọi hoàn cảnh, nhưng chỉ ghi nhận đơn thuần thôi mà không khởi tâm muốn chiếm hữu hoặc loại trừ thì khổ đau không có cơ sở để sinh khởi. Căn bệnh lớn nhất của chúng ta là muốn chiếm hữu các đối tượng thích thú, nhằm thỏa mãn cho các giác quan, và chạy trốn hay chống đối lại những gì thân tâm không ưa thích. Đây chính là nguyên nhân tạo ra phiền não và khổ đau. Bởi cố mong cầu để đạt được một cái gì đó thì rơi vào tâm Tham lam, và mình ao ước mong muốn cái đó, nhưng giấc mơ ấy không thành tựu thì chắc chắn khổ đau sẽ hiện hữu (cầu bất đắc khổ). Còn, khi ta cố gắng để loại trừ những gì mình cảm thấy khó chịu thì đó chính là cái tâm Sân hận. Và nếu, ta muốn dẹp bỏ chúng nhưng không được thì lại khổ hơn (oán tắng hội khổ). Như vậy, trong cuộc sống hằng ngày khi nào ta rơi vào hai trạng huống này sẽ trở nên bế tắc và bất an.
Sở dĩ con người bị khổ đau giam hãm, trói buộc là do không thấy rõ được dòng sinh khởi vận hành của tâm thức. Thực ra, khi trong tâm khởi lên một ý niệm buồn chán, ta chỉ cần thấy rõ và gọi đúng tên nó thôi là đủ. Chào bạn Buồn, dạo này bạn có khỏe không? Mời bạn ngồi xuống uống trà với tôi. Hoặc khi trong tâm khởi lên ý niệm giận hờn ai đó thì mình cũng thấy rõ và gọi đúng tên nó; chào anh Giận, anh tới tìm tôi đó hả? Nếu mình tiếp đón lịch sự với khổ thì chẳng có gì phải lo ngại cả. Và khi ta đã sống hòa bình, thân thiết cũng như đối xử tốt đẹp với khổ rồi thì có gì xa lạ nữa đâu mà sợ hãi hay chạy trốn? Giống như trong thời chiến tranh, người lính đêm ngày leo đồi, lội suối, băng rừng gian nan vất vả. Ăn cơm nguội, uống nước sông, ngủ giữa rừng cây, chịu nhiều mưa gió lạnh buốt và họ không biết mình sẽ chết lúc nào vì bom đạn loạn lạc. Sau khi hết chiến tranh, người lính ấy được trở về sống yên bình với làng quê, cho dù đời sống kinh tế của họ gặp khó khăn bao nhiêu chăng nữa, cũng không ăn nhằm gì so với lúc còn ở ngoài chiến trường, bởi người ấy đã từng sống chung với khổ và học được rất nhiều kinh nghiệm từ đau khổ. Do vậy, nhiều khi khổ không hẳn là thứ xấu xa cần phải loại trừ, mà nó là bậc Thầy chỉ dạy cho mình thấy ra được giá trị đích thực của cuộc sống. Giống như bông hoa sen kia, sở dĩ nó được thơm ngát tươi đẹp như thế, cũng nhờ có bùn lầy tanh hôi, bởi không có bùn thì làm sao có sen? Cho nên bùn lầy nhơ nhớp rất cần thiết để tạo thành những đóa sen tươi mát và đẹp đẽ mà hiến tặng cho cuộc đời.
Thực ra, kháng cự hay phản ứng lại đối tượng là do bản ngã của ta xen vào. Còn các pháp thì luôn luôn vận hành đúng theo tiến trình nhân quả của nó. Sở dĩ có việc gì đó xảy ra, đều do nhiều nguyên nhân đã kết tạo từ trong quá khứ, và bây giờ nó được hình thành. Ví như, khi tiếp xúc với một người, nhưng không biết lý do nào đó mà họ vu oan, la mắng ta. Thông thường ta sẽ phản ứng trở lại để biện minh sự thật, hoặc là chửi họ một trận cho hả dạ, vì cái tội vu oan. Thế nhưng, hành động đó không thể hóa giải và đem lại sự hài hòa cho cả hai phía, mà đôi lúc oán thù lại càng chồng chất lên thêm. Trong trường hợp này, bạn chỉ cần bình thản và nhận diện rõ ràng những cảm thọ sinh khởi ở thân tâm mình là đủ. Khi tâm ý được lắng dịu thực sự, bạn sẽ thấy ra mọi gốc rễ của vấn đề.
Trước hết, họ nói những lời sai với sự thật và không được dễ thương, tức là con người ấy đang đau khổ. Còn, đối với người có niềm an vui hạnh phúc thì họ không bao giờ nói ra những lời lẽ tiêu cực để gây đau khổ cho bất cứ một ai. Thứ đến, người không biết sử dụng ngôn từ dễ thương là người thiếu hiểu biết; bởi tâm trí không được sáng suốt, nên họ hành xử theo lối mòn phản kháng của bản ngã. Và phần còn lại là do sự yếu kém ở nơi mình. Bởi có nhiều khi, họ nói với ta một vài câu không được dễ thương, và chỉ xảy ra trong vòng năm phút thôi, nhưng mình ôm ấp cái giận hờn đó suốt cả ngày, để rồi ăn uống chẳng được ngon, ngủ cũng không yên ổn. Ta thật dại khờ luôn bị hoàn cảnh bên ngoài đánh lừa và sai sử. Và hạnh phúc của tự thân ta hầu như nó tùy thuộc vào từng hoàn cảnh bên ngoài; nếu như khi ta gặp sự việc diễn ra tốt đẹp, dễ thương thì an vui hạnh phúc, còn ngược lại là đau khổ!
Chúng ta thấy rằng, tất cả những vui buồn, thương nhớ, giận hờn, thông minh, đạo đức… đều thuộc của mọi người, không dành riêng hay ưu tiên cho bất cứ một ai. Thế thì, tại sao khi họ giận, mình lại không đồng ý? Ta muốn người kia chỉ đối xử tốt đẹp, dễ thương thôi thì đâu có được. Bởi nhiều khi mình cũng sử dụng giận hờn, khó chịu để tiếp xử với họ cơ mà! Thực ra, trong tâm thức của mỗi con người đều có đầy đủ những ý niệm tiêu cực và tích cực. Nhưng, đối với người có tâm hồn bình thản và sáng suốt thì biết vận dụng được cái hay, cái đẹp để tiếp xử với nhau. Còn, với người sống trong mê mờ và quên lãng thực tại thì tùy thuộc vào từng hoàn cảnh bên ngoài mà có vui hay buồn.
Để chuyển hóa khổ đau trở thành an vui hạnh phúc, bạn chỉ cần thường trực nhận diện những gì đang xảy ra trong thân tâm mình và hoàn cảnh hiện tại một cách rõ ràng, khách quan và trung thực với chính nó. Không khởi tâm áp đặt và bóp méo hiện thực ấy theo quan điểm chủ quan của mình. Bạn chỉ lặng lẽ quan sát sự sinh diệt, thay đổi của các pháp đến và đi như đang ngắm nhìn dòng sông lững lờ trôi chảy thì sự bình yên và hạnh phúc chân thực sẽ hiện hữu nơi bạn một cách trọn vẹn!
Viên Ngộ